Lưu Bị

Lưu Bị

Lưu Bị (161 – 223) là một vị tướng, nhà quân phiệt, trở thành hoàng đế khai quốc và xây dựng Thục Hán thời Tam Quốc.
Một vị anh hùng không thích đọc sách mấy, tính ôn hòa, ít nói, mừng giận không lộ ra sắc mặt, nhưng lại có chí lớn, chỉ thích kết giao với các tay hào kiệt trong thiên hạ. Người này mình cao bảy thước rưỡi, hai tai chảy xuống gần vai, mắt trông thấy được tai, hai tay buông khỏi đầu gối, mặt đẹp như ngọc, môi đỏ như thoa son.
Tam Anh Kết nghĩa vườn đào
Lưu Bị tự là Huyền Đức, người huyện Trác (nay thuộc tỉnh Hà Bắc). Ông là con Lưu Hoằng, cháu Lưu Hùng, con cháu đời sau của Trung Sơn Tĩnh vương Lưu Thắng, con Hán Cảnh Đế Lưu Khải. Đến đời Lưu Bị, nghiệp nhà sa sút, đành dựa vào nghề đan giày, bện chiếu mà sống. Ông đọc sách mà không chịu dụng công, lại thích chơichó cưỡi ngựa, thích nghe âm nhạc, nghiên cứu cách ăn mặc.
Một hôm ra chợ, ông gặp 2 người là Quan Vũ và Trương Phi đang cãi cọ, và nhanh chóng nhận ra cả 2 đều có tướng mạo, sức lực phi phàm. Vốn thích kết giao với người hào kiệt, ông can ngăn 2 người rồi mời vào quán rượu cùng luận bàn thế sự. Tại đây, ông kể về dòng dõi hoàng tộc và nói "chỉ hận gia cảnh sa sút, không thể đem sức giúp dân giúp nước". Cảm nghĩa khí và phong thái Lưu Bị cũng như tương đồng về lý tưởng, Quan Vũ - Trương Phi đã cùng ông kết nghĩa huynh đệ trong vườn đào. Tại đây 3 người thề "Không cùng sinh cùng ngày cùng tháng, nguyện chết cùng ngày cùng tháng". Sau này điển tích "Kết nghĩa vườn đào" trở thành mẫu mực, được dùng để ẩn dụ về tình huynh đệ kết nghĩa keo sơn gắn bó.
Trương Phi nguyện dốc hết gia sản chiêu mộ nghĩa binh. Lưu Bị nhờ đó tham gia trấn áp khởi nghĩa quân Khăn vàng mà nổi lên, từng cứu được cả Đổng Trác bị quân Khăn vàng vây khốn. Tuy nhiên Đổng Trác khinh ông xuất thân nghèo hèn, chỉ ban cho chức Huyện lệnh Bình Dương.
Theo Công Tôn Toản tham gia quân Quan Đông đánh Đổng Trác
Lưu Bị làm huyện lệnh Bình Dương một thời gian, ra sức trừng trị tham quan cường hào, được nhân dân kính mến, song bị các quan trên nghi kỵ. Ông phải cùng Quan-Trương rời Bình Dương, theo nương nhờ Công Tôn Toản. Tại đây, ông gặp Triệu Vân, đối xử rất tốt khiến Triệu Vân mang ơn sâu, sau này trở thành một dũng tướng trung thành ra sức đem thân phò trợ.
Năm 192, Viên Thiệu khởi binh, tập hợp 18 lộ chư hầu đem binh thảo phạt Đổng Trác đang chuyên quyền lộng hành trong triều. Lưu Bị cũng theo đi chinh chiến.
Tại doanh trại chư hầu, Lưu Bị lần đầu gặp Tào Tháo, cả hai đã đặc biệt chú ý tới nhau. Tuy nhiên do chỉ là chức nhỏ nên ông bị các tướng khác coi khinh, duy chỉ có Tào Tháo là có phần coi trọng. Trong trận chiến, tướng Hoa Hùng của Đổng Trác liên tiếp chém nhiều tướng Quan Đông, thanh thế lên cao. Lúc này, Lưu Bị bảo Quan Vũ ra trận, chỉ sau 3 hồi trống đã chém đầu Hoa Hùng, khiến uy danh của 3 anh em vụt tỏa khắp thiên hạ. Song Viên Thiệu thấy ông xuất thân cơ hàn mà coi thường, không ban thưởng. Tức giận, Lưu Bị cùng 2 em bỏ đi.
Vì nghĩa cứu Từ Châu
Sau khi Lưu Bị bỏ về ít lâu thì liên quân Quan Đông cũng tan rã, các chư hầu cát cứ quay ra chinh phạt lẫn nhau.
Năm 194, Tào Tháo lấy cớ cha mình bị giết khi đi qua địa phận Từ Châu, đem quân tấn công và tàn sát khắp Tứ Thủy, giết trên 10 vạn dân, bao vây thành Từ Châu. Thái thú Đào Khiêm gửi thư cầu cứu khắp các chư hầu nhưng không ai hồi âm, chỉ có Lưu Bị là đem quân tới cứu.
Lưu Bị mượn quân của Công Tôn Toản đến Từ Châu giúp Đào Khiêm phá được vòng vây Tào Tháo, Đào Khiêm mến Lưu Bị nên có ý nhượng Từ Châu cho Lưu Bị nhưng Lưu Bị khảng khái nói: "Người quân tử cứu người vì nghĩa chứ không vì lợi", rồi không nhận và ra trấn giữ Tiểu Bái. Đào Khiêm bệnh mất, trước khi mất đã cầu xin Lưu Bị nhận Từ Châu. Lưu Bị bất đắc dĩ phải nhận. Sau đó Lữ Bố thua trận đến nương nhờ Lưu Bị, Lưu Bị muốn nhường Từ Châu cho Lữ Bố. Lữ Bố toan nhận nhưng thấy Quan Công, Trương Phi không hài lòng nên chối từ. Sau đó, Lưu Bị được lệnh vua đi đánh Viên Thuật vừa xưng đế, giao Từ Châu lại cho Trương Phi, Lữ Bố đánh úp Từ Châu khiến Lưu Bị phải đến nương nhờ Tào Tháo, nhờ Tào Tháo giúp đánh lại Lữ Bố.
Uống rượu luận Anh Hùng
Lưu Bị xin nương nhờ, Tào Tháo ban đầu muốn nhân cơ hội trừ bỏ kẻ địch nguy hiểm tiềm tàng, nhưng mưu sĩ Quách Gia ngăn lại nói: "Lưu Bị nổi tiếng nhân nghĩa, chúa công giết sẽ chỉ có hại mà không lợi. Còn nếu thu dụng tất sẽ có lúc dùng được y". Thế là Tào Tháo chấp nhận cho Lưu Bị về dưới trướng.
Tào Tháo đánh bại Lữ Bố ở thành Hạ Bì, thắt cổ Lữ Bố ở lầu Bạch Môn rồi dẫn Lưu Bị về triều đình ra mắt Hán Hiến Đế. Hán Hiến Đế xem trong gia phả rồi nhận Lưu Bị làm chú, từ đó Lưu Bị còn được gọi là Lưu Hoàng thúc. Hán Hiến Đế bị Tào Tháo ức hiếp nên viết tờ “Y đái chiếu” cho Đổng Thừa nhờ Đổng Thừa diệt Tào Tháo. Đổng Thừa liên kết với Lưu Bị và Mã Đằng.
Lưu Bị vẫn đề phòng việc Tháo có thể mưu hại, nên thường ra vườn sau trồng rau, tự tay xới đất tưới cây, giả ngây giả dại. Một ngày kia, Quan, Trương đều đi vắng, bỗng thấy Hứa Chử, Trương Liêu dẫn vài chục lính tới gọi Lưu Bị tới chỗ Tào Tháo.
Tại đây 2 người uống rượu, nhân có trời mưa, vòi rồng hút nước, Tào Tháo nói về anh hùng trong thiên hạ, luận rằng: "Con Rồng biến hóa có khi to, khi nhỏ, lúc bay cao, lúc ẩn kín. Khi vươn mình to lớn thì cuộn mây, phun mù. Khi thu hình nhỏ bé để tàng hình ẩn tích. Lên cao thì bay lượn khắp vũ trụ. Tạm ẩn thì chìm lặng dưới ba đào. Nay đang tiết xuân, rồng thừa thời mà biến hóa, cũng như con người gặp khi đắc chí, tung hoành. Con rồng trong loài vật cũng ví như người anh hùng trong đám người." Đoạn Tào tháo bảo Lưu Bị kể tên những người mà Bị cho là anh hùng. Bị kể ra những Viên Thiệu, Viên Thuật, Tôn Sách, Lưu Biểu... song Tào Tháo đều chê bai những người đó. Đoạn bảo: "Người anh hùng ấy à? Phải là người nuôi chí lớn trong tim óc, lại phải có mưu cao kế giỏi, có tài bao tàng cả máy vũ trụ trong lòng, có chí nuối trời mửa đất, ấy mới đáng mặt anh hùng chứ?", rồi Tháo trỏ tay sang Bị, rồi lại trỏ về ngực mình mà nói thẳng ra rằng: "Anh hùng trong thiên hạ ngày nay, chỉ có Sứ quân với Tháo này thôi!"
Huyền Ðức nghe qua, giật nẩy mình lên. Ðôi đũa cầm trên tay bất giác rơi xuống đất! Vừa vặn có tiếng sấm nổ ran! Bị mới từ từ cúi xuống, vừa lượm đôi đũa vừa nói rằng: - Oai trời to thật! Vừa nghe một tiếng, đã đến nỗi này... Tháo cười hỏi: - Trượng phu mà cũng sợ sấm à? Huyền Ðức nghiêm trang nói: - Ðến Thánh nhân xưa kia, nghe sấm rền gió thét cũng còn biến sắc mặt nữa là tôi!
Thế là Huyền Ðức kịp thời thác ra chuyện "sợ sấm" mà che đậy được cái sợ thực của mình. Tháo thì cho rằng Huyền Ðức còn tầm thường, từ đó không nghi ngờ nữa. Lúc đó Quan, Trương nghe tin đến, Lưu Bị đợi Tháo về rồi nói: "Ta sở dĩ học việc làm vườn, là muốn cho Tháo coi thường anh không có chí lớn. Không ngờ Tháo lại nhận anh làm anh hùng, nên anh giật mình đến nỗi đánh rơi đũa. Anh sợ Tháo sinh nghi, vội mượn chuyện "sợ sấm" để che đậy..." Quan, Trương cùng bái phục là cao kiến.
Người sau có thơ khen Huyền Ðức rằng: Gượng vào hang cọp tạm nương thân, Lộ mặt anh hùng, đũa rớt lăn! Vội vã bầy ra trò sợ sấm, Tùy cơ ứng biến lẹ như thần.
Lưu Bị tuy vậy cũng biết Tào Tháo đã có ý dò xét, sau đó xin Tào Tháo đi diệt Viên Thuật rồi trốn khỏi Tào Tháo. Lưu Bị mang 1 vạn quân đi chặn đánh 4 vạn quân Viên Thuật. Thuật bị thua trận phải quay trở lại và kiệt sức ốm chết. Cùng lúc, Lưu Bị mang 1000 quân đuổi được Thuật bèn chính thức ly khai khỏi Tào Tháo, mang quân chiếm lại Từ Châu, giết chết Xa Trụ.
Tào Tháo đem quân đánh Lưu Bị, ba anh em Lưu, Quan, Trương thất tán mỗi người một nơi. Lưu Bị đến nương nhờ Viên Thiệu, sau Quan Vũ chém chết 2 tướng của Viên Thiệu là Nhan Lương, Văn Xú nên Lưu Bị suýt bị Viên Thiệu chém đầu. Sau đó ba anh em đoàn tụ, Lưu Bị đến nương nhờ Lưu Biểu sau đó Lưu Bị đồn trú ở Tân Dã, chiêu nạp hiền tài nghĩa sĩ, đi khắp nơi cầu hiền.
Dùng nghĩa cảm Từ Thứ

Năm ông 47 tuổi, một hôm đi đường gặp một nho sĩ có phong thái khác thường. Vị nho sĩ nói: "Tướng quân có tướng đại phú quý, chỉ hiềm con ngựa tướng quân cưỡi có tướng sát chủ. Nên đổi con ngựa này cho ai đó thì tai vạ sẽ chuyển hết sang cho người kia". Lưu Bị nghe thế cả giận: "Ta tưởng ông có kiến giải cao siêu, hóa ra là bày kế hại người. Chuyện lợi mình hại người bất nghĩa như vậy ta quyết không làm". VỊ nho sĩ cười lớn: "Quả tin đồn Huyền Đức nhân nghĩa là không ngoa.", rồi ông tiết lộ mình chính là danh sĩ Từ Thứ, nguyện giúp ông làm nên nghiệp lớn.
Được ít lâu, Tào Tháo sai Tào Nhân đem 5 vạn quân đánh Lưu Bị chỉ có 5000 quân. Lưu Bị được Từ Thứ hiến kế mai phục, đánh tan quân Tào. Biết Lưu Bị đã có nhân tài, Tào Tháo dùng mẹ Từ Thứ ép ông phải rời Lưu Bị. Pháp Chính khuyên Lưu Bị nên tìm cách giữ chân Từ Thứ, Tào Tháo đợi lâu sẽ giết mẹ Thứ, nhờ đó Thứ sẽ vì báo thù mà càng ra sức giúp. Nhưng Lưu Bị gạt đi vì cho rằng "lợi dụng lòng hiếu mà hại người là đại bất nghĩa". Từ Thứ trước khi đi còn thề "Thân tại Tào tâm tại Hán, nguyện cả đời không hiến cho Tào một kế nào". Rồi Từ Thứ nói ở Long Trung (nay là Tương Dương, Hồ Bắc) có người có tài trị nước tên là Gia Cát Lượng.
Ba lần tới lều tranh mời Gia Cát Lượng
Năm 207, Lưu Bị lặn lội không quản đường dài, đích thân ba lần tìm đến gặp Gia Cát. Quan - Trương thấy đường xa mệt nhọc nên bảo Lưu Bị chỉ cần viết thư mời, nhưng Bị cho rằng muốn cầu hiền tài phải thể hiện được tấm lòng nên đều đích thân đi. Gia Cát Lượng cảm động vì lòng chân thành nên ra khỏi lều tranh, giúp ông trị nước.
Gia Cát Lượng trình cho Lưu Bị "Long Trung đối sách", bàn về tình hình thiên hạ, kiến nghị Lưu Bị liên kết với Tôn Quyền lấy Kinh Châu, Ích Châu, và chống họ Tào. Gia Cát Lượng nói: "Tào Tháo có thiên thời, Tôn Quyền có địa lợi, còn chúa công có Nhân hòa. Chúa công nên lấy Nhân Hòa làm trọng thì sẽ tạo thành thế chia 3 thiên hạ, từ đó có thể thu phục Trung nguyên, chấn hưng Hán thất". Từ đó Lưu Bị coi cuộc đối thoại đó là tư tưởng chiến lược thống nhất thiên hạ.
Năm 208, Tào Tháo sai Hạ Hầu Đôn đem 10 vạn quân đánh Lưu Bị, nhưng bị Gia Cát Lượng dùng hỏa công đánh tan ở Tân Dã. Tức giận, Tào Tháo thân chinh đem dẫn đại quân từ Giang Lăng dọc Trường Giang tiến thẳng xuống Hạ Khẩu. Lưu Bị thấy thế cô lực mỏng nên rút khỏi Phàn Thành, rồi phái Gia Cát Lượng sang Giang Đôngdùng tài diễn thuyết để thuyết phục Tôn Quyền liên minh chống Tào. Đô đốc quân Ngô là Chu Du dùng hoả công đại phá quân Tháo ở Xích Bích, hình thành thế chân vạc.
Lên ngôi Hán Trung Vương

Sau khi quân Tào Tháo đại bại ở Xích Bích, Lưu Bị chớp thời cơ chiếm Kinh Châu trước khi quân Ngô tới. Tôn Quyền sai người đòi không được, bèn dùng em gái là Tôn Thượng Hương làm mồi nhử, mời Lưu Bị sang đất Ngô để kết thông gia, mưu hại chết trên đường. Lưu Bị theo lời dặn của Gia Cát Lượng, sang đất Ngô bèn ra sức vỗ về dân chúng, loan tin kết hôn khắp nơi, đến tận tai Ngô quốc thái (mẹ Tôn Quyền). Ngô quốc thái cho mời Lưu Bị tới gặp, thấy thần thái hơn người nên rất vừa lòng. Tôn Quyền thấy vậy không dám hại Lưu Bị nữa, việc kết thân từ giả cũng thành thật.
Tôn Quyền lại bày ra kế khác, cho Lưu Bị ở trong một cung điện thật sang trọng, cho đàn hát ca múa suốt ngày để Lưu Bị ham vui mà quyên sự nghiệp. Nhưng ít lâu sau, được tướng Triệu Vân khuyên can, Lưu Bị trốn khỏi đất Ngô. TÔn phu nhân cũng nguyện theo ông cùng trốn về Kinh Châu.
Năm 214, Lưu Bị giả vờ đến giúp đỡ Lưu Chương, là người cùng họ, nhưng đánh lén, chiếm lấy đất Thục (theo Tam Quốc Diễn Nghĩa thì việc này do Bàng Thống và Khổng Minh thúc ép, còn Lưu Bị chỉ muốn thuyết phục Lưu Chương thoái vị). Từ đó ông có cả đất Kinh Châu và Ba Thục, trở thành một quyền lực lớn ở phía Tây, nhưng quân sư là Bàng Thống chết trong cuộc chiến.
Có ý kiến cho rằng Tào Tháo bỏ cơ hội đánh Tây Xuyên vì ông không đánh giá cao tài năng quân sự của Lưu Bị và trở về để lo dọn đường cho việc xưng vương. Đầu năm 219, Lưu Bị qua sông Miện Thuỷ, dựa vào sườn núi Định Quân đóng quân. Tướng Ngụy là Hạ Hầu Uyên không biết là kế, mang toàn quân đến vây đánh, bị phục binh của tướng Hoàng Trung từ trên núi đổ xuống đánh ngang sườn. Uyên và Thứ sử Ích châu là Triệu Ngung cùng tử trận. Lưu Bị chiếm được Hán Trung, và tự xưng là Hán Trung Vương. Ông phong Ngũ Hổ Tướng gồm có: Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân, Mã Siêu và Hoàng Trung. Ngụy Diên được cho trấn thủ Hán Trung.
Ngụy vương Tào Tháo được tin, đích thân mang đại quân từ Tràng An qua hang Tà Cốc vào Xuyên để quyết chiến. Lưu Bị giữ thế phòng thủ không ra giao chiến. Qua hơn 1 tháng khiêu chiến không đánh được trận nào, quân Tào mệt mỏi. Lưu Bị lại sai người lọt vào hàng ngũ quân Tào làm nội ứng, phao tin đồn khiến quân Tào chán nản phải rút lui.
Năm 220, sau khi Tào Phi xưng đế (Ngụy Văn Đế). Gia Cát Lượng cùng quần thần khuyên can 5 lần, Lưu Bị mới đồng ý lên làm hoàng đế, lấy quốc hiệu là Hán để kế tụcnhà Hán (sử gọi là Thục Hán), đóng đô ở Thành Đô.
Vì tình huynh đệ mà hỏng đại cục

Sau 12 năm, tất cả đại cục thiên hạ đều như Gia Cát Lượng đã dự đoán: thiên hạ chia 3, Lưu Bị đã có Kinh Châu, Ích Châu và Hán Trung, Thục-Ngô liên minh chống Tào, thêm vào đó là Tào Tháo và nhiều tướng tài của Ngụy cũng đã qua đời. Long Trung đối sách đã hoàn thành một nửa, tiếp theo Thục chỉ cần hòa hoãn với Đông Ngô rồi phát binh, chia 2 mũi từ phía Tây và phía Nam hợp kích đánh bại Tào Ngụy để khôi phục nhà Hán.
Liên minh Thục - Ngô có lẽ sẽ kéo dài và Thục Hán có thể sẽ thống nhất Trung Hoa nếu như không xảy ra biến cố Quan Vũ không nghe lời Gia Cát là "Đông hòa Tôn Quyền bắc cự Tào Tháo", liên tiếp tỏ ý khiêu khích Đông Ngô. Nhân lức Quan Vũ đem quân tấn công quân Tào, Tôn Quyền sai đại tướng Lã Mông đánh úp lấy Kinh Châu, Quan Vũ bị bắt sống rồi bị chém đầu. Lưu Bị nổi giận mang quân báo thù làm cho quan hệ liên hiệp giữa Tôn Quyền và Lưu Bị tan vỡ, chiến tranh Ngô-Thục nổ ra. Cũng bắt đầu từ đấy hễ Thục bị Ngụy tấn công thì Ngô không thèm dòm tới cũng như Ngô bị Ngụy xâm lăng thì Thục cũng không tiến sang đông. (“Sử Trung Quốc” của Nguyễn Hiến Lê).
Năm 221, Lưu Bị vì trả thù cho Quan Vũ, cất đại quân đánh Ngô, mặc dù Gia Cát Lượng và Triệu Vân hết lòng khuyên can. Theo Tam quốc Diễn nghĩa, ông nói: "Trẫm không báo thù được cho em, tuy có giang sơn muôn dặm, cũng chẳng quý gì"[1]. Liền sau đó ông truyền ngay lệnh khởi quân sang đánh Ngô, cũng không đem Gia Cát Lượng, Triệu Vân hay Mã Siêu đi cùng.
Tôn Quyền thấy thế quân Thục mạnh bèn sai sứ cầu hòa, hứa trả lại Kinh Châu, nhưng Lưu Bị vì báo thù nên kiên quyết không nghị hòa. Tôn Quyền rất lo ngại nên sai Lục Tốn đứng ra chỉ huy. Trong trận Di Lăng, quân Thục bị Lục Tốn đánh cho thua to. Lưu Bị thua trận, xấu hổ với nhân dân Thục quốc nên không về triều mà ở tại thành Bạch Đế, rồi buồn bã mà sinh bệnh nặng.
Gửi con thành Bạch Đế
Năm sau, bị bệnh mất ở thành Bạch Đế (nay là huyện Phụng Tiết, Tứ Xuyên), hưởng thọ 62 tuổi. Trước khi lâm chung, ông cho gọi các con, Gia Cát Lượng và Triệu Vân đến căn dặn. Tại đây ông bày tỏ hối hận vì không nghe theo Khổng Minh, rồi bảo các con phải nhận Khổng Minh làm cha nuôi, mọi sự không được làm trái. Triệu Vân(tướng cuối cùng trong Ngũ Hổ tướng) cũng được ông gửi gắm. Cả hai đều bật khóc nguyện dốc hết sức phò trợ hậu chủ, thực hiện di nguyện khôi phục nhà Hán của Lưu Bị.
Ông được truy tôn là Hán Chiêu Liệt Hoàng đế. Con trưởng là Lưu Thiện lên kế vị, tức là Hán Hậu Chủ.
Tính cách :
Trong Tam Quốc Diễn Nghĩa Lưu Bị được ca ngợi như người “Thương dân, lấy dân làm gốc”, và hay lấy đức để thu phục người khác. Tào Tháo, Tôn Quyền, Lưu Bị, cả ba người này cuối cùng đều xưng đế. Thiên hạ chia ba, mỗi người hùng cứ một phương. Phàm đã gây dựng nghiệp đế, ai cũng phải hao tâm tổn sức. Song, trong ba người ấy, không ai gian khổ bằng Lưu Bị. Tào Tháo có thiên thời, Tôn Quyền có địa lợi, ấy là hai thứ có sẵn, trời đất ban cho. Còn Lưu Bị muốn có nhân hòa thì tự mình phải làm lấy, phải bền bỉ phấn đấu mới có
Lưu Bị tuy dòng dõi tôn thất, nhưng xuất thân là kẻ dệt cói, đóng giày, không đất dung thân, lúc dưới trướng Tào Tháo, khi nương nhờ Viên Thiệu, Lưu Biểu... vậy mà cuối cùng đã chia ba thiên hạ, làm vua một nước.
Bí quyết thành công của Huyền Đức nằm trong hai chữ Nhân Hòa. Trong đoạn trường gây dựng sự nghiệp, có thể có nhiều điều Lưu Bị phải nhờ Khổng Minh chỉ cho. Song, hai chữ Nhân Hòa thì Lưu Bị không phải đợi đến Khổng Minh, mà điều đó đã là máu thịt của Lưu Bị vậy. Lưu Bị là Nhân Hòa, phi Nhân Hòa bất thành Lưu Bị. Vì thế, khi nghe Khổng Minh nói: "Chúa công ở giữa nên lấy Nhân Hòa", Lưu Bị đã thấy ngay mình gặp được Khổng Minh như cá gặp nước.
Tào Tháo sống theo triết lý "Thà ta phụ người chứ không để người phụ ta", hoàn toàn đối nghịch với Lưu Bị "Thà chết chứ không làm chuyện bất nhân bất nghĩa". Tôn Quyền vì ngai vàng của mình mà chịu nhục hàng Tào, nhận cửu tích, bá chủ đất Giang Đông mà để mẹ phải sầu muộn, em gái tự sát, người như thế cũng không thể có Nhân Hòa. Phải là người khóc rỏ máu mắt với dân chúng ở Phàn Thành, thà chịu khốn khó chứ nhất định không lấy đất Từ Châu của họ Đào, biết ba phen quỳ trước lều cỏ, biết đồng cam cộng khổ với ba quân như Lưu Bị mới có được Nhân Hòa.
Dù nuôi chí bao trùm vũ trụ, nuốt cả trời đất, nhưng khi ở dưới trướng Tào Tháo thì ngày ngày cuốc đất trồng rau, khi Tháo hỏi đến anh hùng trong thiên hạ thì kể đến Viên Thuật, Viên Thiệu, Lưu Biểu, Tôn Sách, Lưu Chương, Trương Tú, Trương Lỗ, Hàn Toại mà tự giấu mình, ấy là vì có Nhân Hòa mà Lưu Bị lừa được Tào Tháo. Khi sang làm rể ở Đông Ngô, Lưu Bị nhờ hết mực tôn kính Quốc Lão, Quốc Thái, mà vừa được vợ lại vừa an thân, ấy là vì biết Nhân Hòa mà qua được Tôn Quyền.
Lưu Bị là một nhà lãnh đạo có sức hút và rất giỏi thu phục lòng người. Ông có trong tay nhiều nhân tài, những người này đều trung thành theo ông tới chết (không như nhà Ngụy diễn ra nhiều cuộc phản loạn, tiêu biểu là cha con Tư Mã Ý giết vua Ngụy chiếm ngôi). Bởi có Nhân Hòa mà Lưu Bị có được dưới trướng những người hiền tài nhất trong thiên hạ như Khổng Minh, Quan Vân Trường, Trương Phi, Triệu Vân, Hoàng Trung, Khương Duy...
Với tài thu phục nhân tâm, Lưu Bị thu nạp được rất nhiều người tài. Thuở lập nghiệp, ông dù tay trắng nhưng 2 mãnh tướng Quan Vũ, Trương Phi vẫn bất chấp khó khăn mà phụng sự ông tới cùng. Lưu Bị có Gia Cát Lượng làm quân sư, sau đó, có thêm 1 đại quân sư nữa là Bàng Thống. Và, nhờ Nhân Hòa mà Triệu Vân hai bận quên chết cứu ấu chúa, lão tướng Hoàng Trung quên tuổi tác ba phen đòi lên ngựa cầm gươm. Nhờ có Nhân Hòa mà Lưu Bị làm nên nghiệp đế. "Thiên thời bất như địa lợi, địa lợi bất như nhân hòa" (Thuận cơ trời không bằng địa lợi, được địa lợi không bằng được lòng người), Mạnh Tử nói thế quả đúng vậy.
Đọc Tam Quốc, người đời chỉ thấy cái tài của Khổng Minh mà không thấy cái trí của Lưu Bị. Cái trí, cái tài nhìn người của Huyền Đức, chính Khổng Minh nói ra: - Không phải ta khóc Mã Tốc đâu. Ta nhớ khi Tiên Đế lâm chung ở thành Bạch Đế có dặn ta rằng: "Mã Tốc nói khoác quá sự thực, không nên đại dụng". Nay đúng như lời ấy. Vì thế, ta hối hận và lại nhớ đến Tiên Đế cho nên đau lòng mà khóc đó thôi.
Suốt đời, Lưu Bị xem Khổng Minh là thầy. Ấy là đức khiêm của Huyền Đức. Lão Tử nói khiêm là cái đức của đất. Ai không có đức khiêm, người ấy không có Nhân Hòa.
Tuy nhiên, không phủ nhận rõ ràng Lưu Bị là người có tham vọng rất lớn, và là một lãnh đạo biết nắm bắt cơ hội. Ông cùng Tào Tháo phá Lã Bố ở Từ Châu, nhưng Lưu Bị lại khuyên Tào Tháo giết Lã Bố, trừ đi mối họa sau này. Sau đó ông dùng mưu thoát khỏi Tào Tháo để chạy theo Viên Thiệu, sau đó rời bỏ Viên Thiệu để nương nhờ Lưu Biểu. Sau trận Xích Bích, ông chớp thời cơ chiếm lấy Kinh Châu trước quân Ngô, lập Lưu Kỳ vốn ốm yếu làm bình phong để từ chối giao Kinh Châu.
Rõ ràng nhất là việc đánh úp Lưu Chương chiếm đất Thục, rồi cho Lưu Chương chức Huyện lệnh để giam lỏng. Ông cũng cho người giết Bành Dạng, một trong số những người giúp ông chiếm Ba Thục. Và sự nhanh nhạy của Lưu Bị cũng bộc lộ phần nào trong các mẩu chuyện như “Mượn sấm để lừa Tào Tháo”, “Quẳng con mua lòng tướng”.
Tài cầm quân của Lưu Bị, tuy bị che lấp bởi Gia Cát Lượng và các tướng dưới quyền, nhưng cũng có nhiều trận ông thể hiện được tài cầm quân. Khi Kinh Châu bị Tào Tháo vây, Lưu Bị chỉ có 4.000 quân, chiêu hàng được vài ngàn nạn dân Ô Hoàn, rồi lại được Đào Khiêm cấp 4.000 quân nữa, có hơn 1 vạn người mà đã phá được vòng vây của 5 vạn quân Tào, cùng Đào Khiêm thế thủ ở Đan Dương. Hay việc Lưu Bị chỉ có 1 vạn quân mà phá được Viên Thuật có 4 vạn quân (việc mà Lã Bố cũng chưa làm được)
Gia đình :

• Cha: Lưu Hoằng(劉弘), hậu duệ của Lưu Thắng
• Chú:
o Lưu Nguyên Khởi (劉元起), em trai của Lưu Hoằng

o Lưu Tử Kính (劉子敬)

• Vợ:
o Cam phu nhân(甘夫人), mẹ của Lưu Thiện, sau khi mất được tôn vinh là Chiêu Liệt hoàng hậu

o My phu nhân(糜夫人) em gái của Mi Trúc

o Tôn phu nhân (Tôn Thượng Hương)孫夫人 em gái của Tôn Sách

o Ngô hoàng hậu[2]
• Con:
o Lưu Thiện con của Cam phu nhân
o Lưu Vĩnh (劉永)

o Lưu Lý ((劉理)

o Và 2 người con gái, bị bắt bởi Tào Thuần trong Trận Trường Bản, cưới con trai Tào Thuần
• Con nuôi:
o Lưu Phong, họ ban đầu là "Khấu"(),bị buộc tự tử năm 220

• Cháu:
o Lưu Tuyền, con trai lớn của Lưu Thiện
o Lưu Dao (劉瑤), con trai thứ 2 của Lưu Thiện

o Lưu Tông (劉琮), con trai thứ 3 của Lưu Thiện

o Lưu Toản (劉瓚), con trai thứ 4 của Lưu Thiện

o Lưu Kham, con trai thứ 5 của Lưu Thiện
o Lưu Tuân(劉恂),con trai thứ 6 của Lưu Thiện

o Lưu Cừ(劉璩), con trai thứ 7 của Lưu Thiện

o Lưu Dận(劉胤), con trai lớn của Lưu Lý, chết lúc 19 tuổi

o Lưu Tập(劉輯), con trai thứ 2 của Lưu Lý

• Chắt:
o Lưu Thừa (劉丞), con của Lưu Dận, chết lúc 20 tuổi

o Lưu Huyền (劉玄), cháu của Lưu Vĩnh